"Chúng tôi chọn con đường ngắn nhất đi từ khoa học tới ứng dụng."
Get the Flash Player to see this rotator.
Chúng tôi xây dựng một môi trường cần thiết để nghiên cứu, phát triển công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ thông tin hướng tới bảo vệ môi trường và phát triển bền vững của đất nước.
LIÊN KẾT
Website PSG. TSKH. Bùi Tá Long
Tìm xe buýt, tìm địa điểm tại Tp. Hồ Chí Minh,  bản đồ 24h
Chúc mừng năm mới
Chúc mừng năm mới 2015
BÀI BÁO TẠI HỘI NGHỊ

Đánh giá sức tải môi trường với Amoni Và TSS – trường hợp vịnh Dung Quất, Việt Nam

- Tên tiếng Anh: Đánh giá sức tải môi trường với Amoni Và TSS – trường hợp vịnh Dung Quất, Việt Nam
- Đơn vị tổ chức: WRE conference
- Quốc gia: Macau, Trung Quốc
- Từ trang - đến trang: 106
- Năm: 2019

Tóm tắt

Với vùng bờ biển Việt Nam dài trên 3260 km, hàng năm đổ ra biển khoảng 847 tỷ m3 nước với trên 250 triệu tấn bùn cát, kèm theo một khối lượng lớn các chất dinh dưỡng cùng chất ô nhiễm, nhưng bài toán đánh giá sức tải môi trường nói chung và sức chịu tải của các thủy vực vẫn còn chưa được quan tâm đúng mức. Trong nghiên cứu này, thực hiện đánh giá sức tải môi trường tại vịnh Dung Quất, Quảng Ngãi nơi đang diễn ra nhiều hoạt động kinh tế gây tác động tiêu cực tới môi trường ven biển. Dựa trên phương pháp tính toán sức chịu tải môi trường do nhóm chuyên gia nghiên cứu các khía cạnh khoa học của môi trường biển (GESAMP – Group of Experts on the Scientific Aspects of Marine Environmental Protection) đưa ra, kết hợp với mô hình mô phỏng thủy động lực học và chất lượng nước Mike21 đã thực hiện đánh giá sức tải môi trường theo 2 mùa đặc trưng của khu vực nghiên cứu. Kết quả cho thấy, về mùa khô, nếu so với tiêu chuẩn vùng nuôi trồng thủy sản, bảo tồn thủy sinh thì NH4+ không còn khả năng chịu tải; tuy nhiên so với tiêu chuẩn nước cho bãi tắm và thể thao dưới nước thì NH4+ vẫn còn khả năng chịu tải là 0,029 (tấn/ngày) và 2,231 (tấn/ngày) ứng với chân và đỉnh triều. Với TSS thì chịu được khoảng 7 tấn đến 370 tấn mỗi ngày tương ứng với chân triều và đỉnh triều vào mùa khô. Về mùa mưa, thì NH4+ đã không còn khả năng chịu tải ở tất cả các trường hợp; TSS còn khả năng chịu tải là khoảng 160 (tấn/ngày) và 660 (tấn/ngày) lần lượt ở chân và đỉnh triều.


Abstract

Vietnam has a more than 3,260 km coastline. Every year it discharges to the marine about 847 billion m3 of water and over 250 million tons of sediment, accompanied by a large amount of nutrients and pollutants. However, the assessment problem environmental capacity in general and carrying capacity of water bodies are still not paid attention. In this study, carrying out an assessment of environmental capacity in Dung Quat bay where many economic activities are taking place and negatively impact on the coastal environment. The combination of calculating the environment capacity proposed by Group of Experts on the Scientific Aspects of Marine Environmental Protection (GESAMP) and tissue hydrodynamics and water quality modeling pakegae Mike21 has conducted environmental capacity assessment according to two typical seasons of the study area. The results show that, in the dry season, if compared with the standards of aquaculture, aquatic conservation, NH4+ is no longer able to bear the load; however, compared to water standards for beaches and water sports, NH4+ still has the capacity to bear the load of 0.029 (ton/day) and 2,231 (tons/day) corresponding to the low and high tide. With TSS, it can withstand about 7 tons to 370 tons per day corresponding to low tide and high tide in the dry season. In the rainy season, NH4 + is no longer able to bear the load in all cases; TSS also has environment capacity of about 160 (tons/day) and 660 (tons/day) at the low and high tide, respectively.